Thứ Sáu, 6 tháng 3, 2009

ASEAN một lũ ăn tục nói phét



Hôm nọ được giao nhiệm vụ viết một bài về hội nghị thượng đỉnh ASEAN mà bóp mãi không ra được cái gì. Thì nội dung cái cuộc họp summit lần thứ 14 này có cái quái gì đâu mà nói? Quanh đi quẩn lại vẫn từng đấy câu bốc phét, hàng năm tua đi tua lại không biết nhục: hội nghị đã thành công tốt đẹp, các nước tăng cường hợp tác chống khủng hoảng, nhiều văn kiện quan trọng được ký kết làm tiền đề cho việc tiến tới thành lập cộng đồng chung ASEAN vào năm 20xx. Trên thực tế, đây là một hội nghị vô danh vô thực, là nơi để các nước ASEAN khẳng định tình đoàn kết nội khối, với nguyên tắc cơ bản nhất là không can thiệp vào công việc của nhau, tất cả mọi quyết định được thực hiện trên tinh thần đồng thuận. Câu cuối này có nghĩa là không ai làm được cái gì cả. 10 nước này có bao giờ đồng thuận với nhau được cái gì?

Đề xuất thành lập quỹ trao đổi tiền tệ giữa ASEAN và 3 nước đối tác Đông Bắc Á lẽ ra là một sáng kiến hay, nhưng thái độ dè chừng nhau của dân châu Á da vàng mũi tẹt đã biến nó thành trò hề. Hình thành ngay sau cuộc khủng hoảng tiền tệ châu Á năm 97 với tên gọi sáng kiến Chiềng Mai, ASEAN và 3 nước Đông B Á muốn tạo lập một quỹ độc lập với IMF để bảo vệ đồng tiền khu vực, nhưng chỉ vì cãi nhau tỷ lệ đóng góp cụ thể từng nước và cơ cấu hoạt động mà cả chục năm đề xuất vẫn chỉ là đề xuất. Quá nhục!!! Dân châu Á đúng là chỉ có tư chất làm nô lệ.

Kết quả có ý nghĩa duy nhất của cuộc họp lần này là FTA với Úc và New Zealand. Thực ra, cái FTA này lại thể hiện cái tính lá mặt lá trái rất hèn hạ của nhiều nước ASEAN. Indonesia đã ra lệnh bắt buộc công chức nhà nước mua hàng nội địa, Malaysia cũng đặt vấn đề ưu tiên cho hàng trong nước, thế nhưng lại ra rả nói rằng chúng tôi kịch liệt chống lại chủ nghĩa bảo hộ!!! Trò dối trá này khiến chính dân ASEAN có lương tri phải thấy nhục.

Nhưng Indonesia, Malaysia có nhục cũng không thể nhục bằng Việt Nam. Ai làm việc cho các phương tiện truyền thông quốc gia hẳn đều biết chuyện này. Nhục lắm, nhục nhất quả đất luôn.

Thứ Bảy, 28 tháng 2, 2009

Thị trường phái sinh: thứ vũ khí hủy diệt mới

Thị trường phái sinh sẽ định hình nền kinh tế thế giới trong thế kỷ 21. Nó là quả tên lửa mang đầu đạn hạt nhân đã rời bệ phóng.

-Quy mô thị trường phái sinh đã gấp 12,5 lần tổng GDP thế giới. GDP thế giới năm 2008 là 78 nghìn tỷ đô la.

-Miếng bánh lớn nhất của thị trừơng phái sinh thuộc về interest rate derivatives (các giao dịch phái sinh liên quan đến lãi suất). IRD chiếm 70% các giao dịch phái sinh thế giới.

-Các giao dịch tài chính phái sinh thường không được nêu ra trong bảng cân đối kế toán của công ty.

-JP Morgan Chase vừa thiết lập một tổ chức chuyên đảm trách các giao dịch phái sinh phi tập trung (over the counter), có tên Global Derivatives Service.

-Quy mô của các giao dịch phái sinh tín dụng (credit derivatives) toàn cầu là 27 nghìn tỷ đô la, trong đó phần lớn là CDS.

Thứ Ba, 24 tháng 2, 2009

Lịch sử phát triển của thị trường phái sinh

Một số cột mốc chính của sự phát triển thị trường phái sinh:

-24/9/1730: Sàn giao dịch hợp đồng tương lai đầu tiên trên thế giới được thiết lập tại thành phố Osaka, mang tên Sàn giao dịch Gạo Dojima. Dojima là tên một quận ở Osaka. Khi đó chính quyền Edo trả lương cho các samurai bằng gạo. Năm 1730 giá gạo xuống thấp, nên số tiền quy đổi được từ gạo cũng giảm đi. Để giải quyết tình trạng này, người ta nghĩ ra cách mua bán gạo không thanh toán ngay mà thanh toán vào một thời điểm sau này với mức giá hiện tại, đề phòng tình trạng giá gạo còn xuống nữa. Cách này được gọi là mua bán gạo ghi sổ.



-1848: sàn giao dịch Chicago (Chicago Board of Trade) ra đời. Đây là sàn giao dịch các công cụ tài chính phái sinh hiện đại đầu tiên trên thế giới. Ban đầu, người ta chỉ ký kết các hợp đồng kỳ hạn. Đến năm 1864, các hợp đồng tương lai mới hình thành.



-1949: quỹ đầu tư ngừa rủi ro (hedge fund) đầu tiên trên thế giới được thành lập bởi Alfred Jones (1900-1989), người gốc Úc. Khoảng tháng 5 năm 1949, Alfred thành lập công ty đầu tư với số vốn ban đầu là 100 nghìn đô la Mỹ, trong đó có 40 nghìn đô la tiền túi của ông. Chiến thuật của Alfred là mua thật nhiều cổ phiếu, để sự lên xuống giá mỗi cổ phiếu bị bù trù cho nhau và làm giảm rủi ro đầu tư. Trong suốt 34 năm hoạt động dưới sự điều hành của Alfred, quỹ chỉ lỗ 3 năm.

-1973: Sàn giao dịch quyền chọn Chicago được thiết lập. Đây là sàn giao dịch quyền chọn chứng khoán tiêu chuẩn hóa đầu tiên trên thế giới.

-1987: nhóm nghiên cứu các công cụ phái sinh của ngân hàng JP Morgan Chase đã phát minh ra Credit Default Swap.

-2007: quy mô thị trường các công cụ phái sinh toàn cầu vượt quá 450 nghìn tỷ đô la Mỹ.

Thứ Hai, 23 tháng 2, 2009

Hợp đồng tương lai & Hợp đồng kỳ hạn

Hợp đồng tương lai (Futures Contract): là một dạng công cụ tài chính phái sinh. Hợp đồng tương lai ra đời để giảm thiểu những rủi ro sinh ra từ sự biến động giá hàng hóa cho bên mua và bên bán.

Hợp đồng tương lai được ký giữa hai bên mua và bán thông qua một tổ chức trung gian, thường là một sàn giao dịch. Trong hợp đồng tương lai, hai bên thỏa thuận bán một lượng hàng xác định vào một điểm xác định trong tương lai với một mức giá xác định.

Mức giá ở đây là mức giá được giao dịch trên thị trường tại thời điểm đó. Khi bạn thấy mức giá vào thời điểm này hợp lý, giả sử bằng X đô la, bạn sẽ đặt mua một lượng hàng hóa Y (đơn vị) với giá X đô la một đơn vị giao vào Z tháng sau. Đến thời điểm giao hàng, bạn sẽ được mua với giá X*Y đô la (đây cũng là giá trị hợp đồng), bất chấp giá trị thị thường khi đó là bao nhiêu đi chăng nữa.

Để được giao dịch hợp đồng tương lai, bạn phải nộp một khoản tiền cho sàn giao dịch gọi là tiền ký quỹ (margin). Số tiền này thường vào khoảng 5-10% giá trị hợp đồng.

Sau khi hợp đồng được ký kết, nếu giá hàng hóa giảm xuống, ví dụ X-1 đô la, bạn sẽ bị lỗ vì giá bạn đặt mua cao hơn giá thị trường 1 đô la. Tổng số tiền bạn bị lỗ là Y đô la. Sàn giao dịch sẽ lấy đi từ tài khoản của bạn Y đô la và chuyển cho người bán. Sự điều chỉnh này sẽ diễn ra hàng ngày cho tới khi hợp đồng kết thúc.

Việc sàn giao dịch trừ đi số tiền lỗ của bạn trong tài khoản ký quỹ khiến số tiền ký quỹ của bạn giảm xuống. Nếu tiền ký quỹ giảm xuống dưới một mức nhất định, bạn sẽ phải gửi thêm tiền vào nếu không sẽ bị loại khỏi quá trình giao dịch.

Hợp đồng tương lai mới được bắt đầu được áp dụng tại Việt Nam từ năm 2005.

Hợp đồng kỳ hạn (Forward Contract):cũng giống với hợp đồng kỳ hạn tương lai ở chỗ xác định giá và ngày giao hàng cụ thể, nhưng trong hợp đồng kỳ hạn hai bên giao dịch trực tiếp với nhau không qua trung gian. Trong hợp đồng kỳ hạn, hai bên sẽ thanh toán vào thời điểm giao hàng, không thanh toán lỗ lã hàng ngày như trong hợp đồng tương lai. Điều này khiến mức độ rủi ro của hợp đồng kỳ hạn cao hơn hợp đồng tương lai.

Vũng Quýt: công trình lịch sử

Xa xưa, trên lãnh thổ Việt Nam không có cái tên Dung Quất. Chỉ có vịnh Vũng Quýt ở tỉnh Quãng Ngãi. Nhưng người dân Quảng Ngãi với cái giọng trọ trẹ của mình, đã phát âm Vũng Quýt thành Dũng Quýt. Dần dần, Dũng Quít biến thành Dung Quất, nơi nhà máy lọc dầu đầu tiên của Việt Nam ra đời vào tháng 2 năm 2009.



Trước năm 2006 Dung Quất đồng nghĩa với sai lầm, chủ quan duy ý chí của lãnh đạo Đảng mà tội lớn nhất là ông Kiệt, thì sau năm 2006 và nhất là vào tháng 2 năm 2009, Dung Quất lại đồng nghĩa với sự dũng cảm, dám nghĩ dám làm, thông minh sáng suốt của Đảng mà công lớn nhất thuộc về cố thủ tướng Võ Văn Kiệt kính yêu, người đã được tỉnh Quảng Ngãi lấy tên đặt cho một con đường mới ở khu đô thị Vạn Tường.



Dung Quất là một công trình hùng vĩ với rất nhiều hạng mục gây choáng ngợp. Con đê chắn sóng này dài 1,6 km, chân đê rộng hơn 100 mét, đỉnh đê cao 10 mét so với mặt nước biển. Đơn vị thi công đã phải sử dụng 1,5 triệu m3 đá các loại. Đây là con đê lớn nhất Đông Nam Á, và sau khi hoàn thành, chi phí xây dựng đã bị đội lên thêm 24 triệu đô la.



Nhiều thiết bị siêu trường siêu trọng đã được chở tới đây bằng xe chuyên dụng. Những thiết bị này không quen mắt với những người Việt Nam quen nghĩ nhỏ làm nhỏ. Mác nói vật chất quyết định ý thức, có lẽ loại vật chất khổng lồ này từ nay sẽ có tác động tích cực đến tư duy công nghịêp của người Việt chăng (?)



Dung Quất là một dự án kinh tế nhưng lại được quyết định bởi một động cơ chính trị. Cố thủ tướng VVK đã quyết định đặt nhà máy lọc dầu đầu tiên của VN tại một tỉnh miền Trung để thúc đẩy kinh tế khu vực này lên, bất chấp những bất lợi của vị trí địa lý khu vực. Điều này chắc chắn sẽ không bao giờ có thể xẩy ra ở một nước tư bản hoặc có chế độ nhiều đảng. Tuy nhiên nếu Dung Quất thành công, cái dở có thể sẽ biến thành cái ưu việt.



Dung Quất có vẻ đang thúc đẩy mọi mặt cho cho kinh tế Quảng Ngãi và kinh tế miền Trung: sản lượng công nghịêp, thị trường lao động, thị trường tiêu thụ hàng hóa, điểm trung chuyển hàng hóa bằng đường biển...Tác động giảm giá xăng trong nước có lẽ sẽ khó thực hiện, vì chi phí vận chuyển dầu thô từ mỏ Bạch Hổ lên Dung Quất rồi sau đó trở ngược xăng về tp HCM hay lên Hà Nội khá tốn kém, nhưng dẫu sao bình ổn giá xăng trong nước cũng không phải là mục tiêu chính của dự án.



Việc khu kinh tế Dung Quất đang trở nên sôi động và thu hút nhiều dự án đầu tư cho thấy sức hút to lớn của nhà máy lọc dầu. Nhà máy này giống như bóng đèn điện thu hút các con thiêu thân là các dự án đóng tàu chở dầu, nhà máy thép, chế tạo máy công nghiệp, nhà nghỉ, nhà ở, nhà hàng và vô số dịch vụ ăn theo khác. Một tổ hợp nhiều tầng vô cùng hiệu quả về mặt kinh tế bất chấp việc trái tim của tổ hợp này không có tính kinh tế cao nhất.



Xin chúc mừng mẻ dầu đầu tiên Made in Vietnam. Sau này nhiều khả năng chúng ta sẽ là nước nhập khẩu ròng dầu thô thay vì xuất khẩu dầu thô như hiện nay, và chúng ta sẽ có thêm nhiều nhà máy lọc dầu nữa. Nhưng chắc không có nhà máy lọc dầu nào đáng nhớ như nhà máy này.

Phân khúc nhà ở tại các tỉnh miền Bắc: không dễ ăn



Có rất nhiều dự án xây dựng khu dân cư mới đã được tiến hành hoặc đang được lên kế hoạch tại các tỉnh miền Bắc. Những dự án này nhắm vào tầng lớp thượng lưu* trong một huyện nào đó nơi dự án tiến hành. Những khu dân cư mới này giúp đẩy nhanh quá trình đô thị hóa nông thôn, nhưng cũng thường xuyên biến thành trái đắng cho các chủ đầu tư.

Những dự án khu dân cư mới thường được đặt ở trung tâm một huyện, có quy hoạch na ná giống nhau. Chúng cùng có khu chợ, bệnh viện, trường học, nghĩa trang, khu cây xanh, cơ sở hành chính huỵên, và khu đất ở. Chính cái khu đất ở này mới là trung tâm của dự án, tất cả những phần khác chỉ là "mồi". Người ta làm khu cây xanh để đáp ứng yêu cầu mật độ xây dựng không quá 60% đất dự án, mà cũng để thu hút dân mua đất ở.

Nhưng cá lại không chịu cắn câu. Tình trạng chung của các dự án khu dân cư mới là chỉ những khu đất nằm liền kề mặt đường giao thông mới bán chạy, còn những lô đất phía trong thì rất ế ẩm.

Có nhiều lý do khiến người dân không mặn mà với khu dân cư mới, lý do quan trọng nhất là vì nó không hợp với lối sống làng quê truyền thống của họ. Cách tổ chức và kiến trúc nhà ở các khu này rất giống với đô thị, hai nhà liền kề nhau có khi cũng chẳng biết nhau là ai. Người dân quê không chịu được lối sống công nghiệp này. Họ thích được sang nhà nhau chơi, con cà con kề hàng tiếng mới về.

Một lý do khác là họ đã có sẵn nhà rồi, những ngôi nhà xây dựng xuềnh xoàng, kém về mặt tiện nghi, nhưng lại có diện tích đất vườn, ao rộng hàng trăm mét. Họ cần gì bỏ cả trăm triệu đồng để mua một khu đất nữa? Riêng cái nhà của họ 3 đời con cháu đã ở không hết.




Các nhà đầu tư thường lấy lối sống văn minh đô thị và cơ sở hạ tầng của dự án ra làm tiêu chí thu hút khách hàng, mà quên hẳn rằng người dân quê họ không quan tâm đến cả hai yếu tố trên. Nó trái với lối sống quen thuộc của họ. Nên không có gì lạ khi các dự án thường kết thúc trong thất bại.

Chỉ những ai muốn kinh doanh mới cố mua một khu đất dự án gần mặt đường. Nhưng những khu này thường không có mà mua. Ngay khi dự án được công bố, dân đầu cơ đã mua sạch các lô đất ngon lành này để bán lại dần dần. Tiền đâu mà các bố lại mua được nhiều đất thế? Xin thưa rằng các ông ấy không có tiền, họ lợi dụng cơ chế thanh toán chia thành nhiều giai đoạn để ôm hàng. Lấy ví dụ để sở hữu một lô đất trị giá 800 triệu đồng, họ sẽ được trả làm 3 lần, lần đầu chỉ phải trả 400 triệu, hai lần sau trả tiếp. Thế nên nhiều người có thể ôm 3,4 lô đất mà chỉ phải trả một khoản tiền khiêm tốn. Họ sẽ bán lại cho những người có nhu cầu thực sự với cái giá ngất ngưởng. Sự tham gia của dân đầu cơ gây thiệt hại cho cả chủ đầu tư lẫn khách hàng. Chủ đầu tư thu hồi vốn chậm, còn khách hàng phải trả giá quá cao. Nhưng rất khó khắc phục được tình trạng này, vì không thể đòi người mua trả một lần hết ngay một số tiền lên đến gần 1 tỷ đồng được.

Phân khúc nhà ở các tỉnh không phải dễ ăn, nhiều người đã trầy da tróc vẩy khi lao vào thị trường này.

*Tầng lớp thượng lưu: chỉ những người có thu nhập xấp xỉ hoặc cao hơn tầng lớp trung lưu tại các đô thị lớn, không ám chỉ về lối sống. Có thể những người này vẫn sống trong những ngôi nhà xuyền xoàng, đi xe máy cũ, nhưng thu nhập của họ lại cao. Cuộc khảo sát của tôi cho thấy phần lớn cư dân nông thôn chỉ có thu nhập 3-4 triệu/năm, những người thu nhập từ 24 triệu đồng năm trở lên đã có thể thuộc về tầng lớp thượng lưu nông thôn rồi.

Thứ Bảy, 21 tháng 2, 2009

Lợi thế thời khủng hoảng


Vừa nhận ra một điều thú vị trong kết quả xuất nhập khẩu của ta. Tháng 1/2009, trong khi tổng kim ngạch xuất khẩu giảm 24,8% so với tháng 1/2008, trong đó giảm đặc biệt mạnh là dầu thô và dệt may, thì riêng gạo lại tăng 2,3 lần về lượng và 2,5 lần về giá trị so với cùng kỳ năm ngoái.

Việc gạo cạnh tranh tốt trong khi những người anh em được kỳ vọng nhiều ngã ngựa không làm tôi ngạc nhiên. Đây là một đặc điểm đã được nêu rõ trong kinh tế học nhập môn: những mặt hàng tiêu dùng thiết yếu có độ co giãn của cầu theo thu nhập (YED) thấp. Nghĩa là sự biến động về thu nhập ít ảnh hưởng đến nhu cầu đối với một số mặt hàng. Lương thực là hàng hóa thiết yếu nhất và dĩ nhiên cuộc khủng hoảng tài chính + suy thoái kinh tế không (chưa) thể khiến người dân thế giới ăn ít đi được. Điều bất ngờ là ở chỗ kim ngạch xuất khẩu gạo lại tăng đột biến. Có lẽ nhiều người do thiếu tiền đã từ bỏ những loại gạo ngon, đắt tiền của Nhật, Mỹ, Thái để chuyển sang ăn gạo rẻ tiền của Việt Nam.

YED của mặt hàng gạo là bao nhiêu? Tôi cho rằng YED chỉ có ý nghĩa về mặt tư duy, chứ không thể và cũng không nên cố tìm ra một con số cụ thể. Nhưng chắc chắn YED của gạo phải thấp hơn YED của, ví dụ, dầu thô hay xe ô tô. Những quốc gia đã công nghịêp hóa toàn diện và trông cậy vào thị trường xuất khẩu hàng công nghịêp chắc chắn chứng kiến sự biến động xuất khẩu dữ dội hơn VN nhiều. Xuất khẩu tháng 1 của Hàn Quốc giảm 32.4%, Đài Loan giảm 44,1%. Không có gì lạ vì 90% tỷ trọng xuất khẩu của các nước này là các mặt hàng công nghệ cao, và dĩ nhiên, có YED cao.

Nếu suy thoái tiếp tục nghiêm trọng, liệu có khả năng chúng ta chứng kiên sự phát triển ngược trong kinh tế thế giới: sự chuyển dịch cơ cấu từ công nghịêp sang nông nghịêp hay không? Câu trả lời là không. Lý do là vì thế giới chỉ cần một lượng lương thực như vậy thôi, làm thừa phải đổ đi. Một lượng lớn lao động mất việc không biết làm gì, có khi phải giải quyết bằng cách tống cổ họ ra trận.